Chủ Nhật, 6 tháng 9, 2015

BÀI 3 : Y HỌC CỔ TRUYỀN " ĐOÁN BỆNH BẰNG MẮT "

3. Ngũ hành và chẩn bệnh

Căn cứ vào các triệu chứng xuất hiện qua Ngũ hành như : Ngũ sắc, Ngũ vị, Ngũ quan, Ngũ chí... 

Để tìm ra tạng phủ tương ứng bệnh (Xin xem ở biểu đồ tổng quát của Ngũ hành, trang cuối của Ngũ hành).

Thí dụ : Bệnh ở mắt có liên quan đến Can vì Nội Kinh ghi : "Can khai khiếu ở mắt" hoặc bệnh ở Tai có liên hệ đến Thận vì Nội Kinh ghi :" Thận khai khiếu ở Tai"...

4. Ngũ hành và bệnh lý

Ứng dụng Ngũ hành vào bệnh lý, chủ yếu vận dụng quy luật Sinh Khắc, Tương Thừa, Tương Vũ, Phản sinh khắc, để giải thích các quan hệ bệnh lý khi 1 cơ quan, tạng phủ nào đó có sự xáo trộn gây ra mất thăng bằng : thái quá (hưng phấn) hoặc bất cập (ức chế).

Thí dụ : Giận dữ ảnh hưởng đến Can (Nội Kinh : Can chủ sự giận dữ), 
Can khí bùng lên, ảnh hưởng đến chức năng tiêu hóa của Tỳ vị (Can Mộc khắc Tỳ Thổ) sinh ra chứng bao tử đau, bao tử loét, gọi là chứng Can Khí Phạm Vị. Nguyên nhân chủ yếu tại Can vượng lên làm hại Tỳ chứ không phải do Tỳ tự suy yếu.

Ngoài ra, có thể dùng các biểu hiện của Ngũ hành để tìm ra sự xáo trộn ở các Hành, Tạng phủ, cơ quan.

Thí dụ : Đau trong xương, tiểu nhiều, lưng đau... có thể nghĩ đến Thận vì : Thận chủ xương, nước tiểu là dịch của Thận, vùng lưng thuộc Thận...

Tuy nhiên, cần lưu ý là sự thay đổi của 1 Hành, luôn luôn đưa tới sự thay đổi của cả 5 hành, nhất là trong các Hội chứng bệnh. Do đó, mối quan hệ giữa các hành không phải chỉ là giữa 2 - 3 hành mà luôn là mối quan hệ giữa 5 hành...

Mỗi hành khi có sự xáo trộn (Hưng phấn hoặc ức chế), có thể do 5 nguyên nhân :

Thí dụ : Hỏa vượng.
- Có thể do tự nó vượng lên, gọi là Chính Tà.

- Có thể do Mộc vượng làm Hỏa vượng (Mộc sinh Hỏa) tức là do tạng phủ sinh ra nó gây ra (bệnh từ Mẹ truyền sang con), gọi là Hư Tà.

- Có thể do Thổ vượng, phản sinh Hỏa, tức là do tạng phủ nó sinh ra, (bệnh từ con truyền sang mẹ) gọi là Thực tà.

- Có thể do Thủy suy, không khắc được Hỏa, tức là có tạng phủ khắc nó (quy luật Tương Vũ), gọi là Vi Tà.

- Có thể do Kim suy, không phản khắc được Hỏa, nhân cơ hội đó Hỏa bùng lên theo quy luật Tương Thừa, gọi là Tặc tà.

Như vậy, có thể nhận thấy rằng :


Đối với 1 Hội chứng, gọi là Hỏa vượng, khi thấy có Mộc vượng, Thổ vượng, Kim suy và Thủy suy. Gọi là Thủy suy khi thấy có Mộc suy, Kim suy, Thổ vượng và Hỏa vượng... Các hành khác cũng lý luận tương tự như vậy.

CƠ THỂ
Tạng

Phủ

Giác 

quan

Dư ra


Thể

Chí

Dịch

Biến 

động

Thanh

Âm

Chức

Cơ năng

Thích

Ghét

Ồ mắt

Ồ lưỡi
Can Mộc

Đởm

Mắt

Móng tay
 chân
Gân cơ


Giận

Nước mắt

Co quắp

Gọi

Giốc



Tướng quân

Vận động

Tỉnh

Rung động

Tròng đen

Rìa trái
Tâm Hỏa

Tiểu 
trường
Lưỡi

Tóc

Mạch máu

Mừng

Mồ hôi

Nhăn nhó

Nói





Trủy

Quân chủ

Tuần hoàn
Mát

Nóng nẩy

2 khoé

Đầu lưỡi
Tỳ Thổ

Vị

Miệng

Da

Thịt


Lo

Nước 
miếng
Ọc

Hát

Cung



Cai kho

Tiêu hóa

Khô ráo

Ẩm ướt

2 mí

Giữa lưỡi
Phế Kim

Đại trường

Mũi

Lông mao

Da


Buồn

Nước mũi

Ho

Than

Thương



Quản trị

Hô hấp

Hoạt nhuận

Khô ráo

Tròng trắng

Rìa lưỡi
Thận 

thủy

B. quang

Tai

Răng
Xương

Sợ

Nước tiểu
Run

Rên






Sức mạnh

Bài tiết

Ôn
Lạnh

Con ngươi

Cuống 
lưỡi

0 nhận xét:

Đăng nhận xét